Tiểu sử Song Joong Ki “Hậu duệ mặt trời” đang là đề tài nóng nhất trên mạng xã hội thời gian vừa qua. Với ngoại hình tỏa sáng cùng khả năng diễn xuất bằng mắt tuyệt vời, Song Joong Ki khiến các fan nữ phải rớt tim bởi những cử chỉ ga lăng với bác sĩ Kang Mo Yeon trong Hậu duệ mặt trời. Ngoài bộ phim “Hậu Duệ Mặt Trời” đã làm nên tên tuổi nam diễn viên Song Joong Ki nổi danh, anh đã nổi tiếng từ bộ phim truyền hình lịch sử Sungkyunkwan Scandal (2010) và chương trình giải trí Running Man với vai trò là một thành viên cố định ban đầu khi chương trình bắt đầu lên sóng vào năm 2010. Vai chính đầu tiên của Song Joong-ki là bộ phim tình cảm tâm lý Chàng trai tốt bụng (2012). Anh cũng đã góp mặt trong vài bộ phim đặc sắc, đặc biệt là nhân vật chính trong bom tấn phòng vé Cậu bé người sói (2012).Sau khi hoàn tất nghĩa vụ quân sự, anh đã vào vai chính trong bom tấn truyền hình Đông Á 2016, Hậu duệ mặt trời đã thu hút mức tỷ suất khán giả cao nhất là 38,8% tại Hàn Quốc, đã đưa anh thành một ngôi sao Hallyu hàng đầu.
Thông tin của Song Joong Ki
- Chiều cao: 178cm
- Cân nặng: 65kg
- Nhóm máu: A
- Chòm sao: Virgo / Chòm sao : Xử Nữ
- Các thành viên trong gia đình: Cha, Mẹ, Anh Trai, Em Gái (
- Học vấn: Khoa Quản Trị Kinh Doanh thuộc Đại học Sungkyunkwan
Song Joong Ki bao nhiêu tuổi? Năm sinh của Song Joong Ki
Song Joong Ki sinh ngày 19/9/1985 tại thành phố Daejeon, Hàn Quốc, tuổi con trâu. Nhóm máu A, cao 1m78, nặng 65kg.
Gia đình Song Joong Ki có mấy người
Gia đình Song Joong Ki gồm bố mẹ, anh trai và em gái. Song Joong Ki có một anh trai trông hoàn toàn khác mình (nam tính, cơ bắp) và em gái Song Seul Kikém 7 tuổi.Khi bạn của Song Seul Ki muốn cô bé chụp cho mình một bức ảnh của Joong Ki, cô nói: “Đây không phải ý tưởng hay ho. Ở nhà, anh tớ chỉ mặc độc cái underwear để đi loanh quanh trong nhà”. Em gái của Song Joong Ki là fan bự của người bạn thân Park Yoochun.
Mẫu bạn gái lý tưởng của Song Joong Ki
Người trong mộng của Song Joong Ki là mẫu người vừa dễ thương lại vừa quyến rũ, giống như Hong Eun Hee và Miranda Kerr (nhưng cả hai đều đã có chồng). Ngoài ra, Joong Ki nói anh thích đôi môi của IU và thấy vui khi nhìn cô ấy hát.
Tiểu sử Song Joong Ki
Khi còn học tiểu học, Song Joong-ki đã mong muốn trở thành một “diễn viên”, “vận động viên” và cả “phát thanh viên”. Anh học chuyên ngành chính là quản trị kinh doanh và văn bằng hai là phát thanh truyền hình. Song Joong-ki xuất hiện lần đầu tiên trên truyền hình với tư cách là một thí sinh trên chương trình Quiz Korea của đài KBS, thay thế cho một vị tiền bối bị ốm và đạt vị trí thứ hai ở vòng chung kết. Điều đó đã mang lại cho anh nhiều sự chú ý và anh trở thành người mẫu trang bìa tạp chí dành cho sinh viên College.
Song Joong-ki là một vận động viên trượt băng tốc độ cự ly ngắn ở trình độ quốc gia thời trung học. Song Joong Ki từng đại diện cho quê hương Daejeon của mình 3 lần tham dự giải Trượt băng tốc độ Quốc gia và giành được các giải thưởng lớn. Tuy nhiên, anh đã phải từ bỏ môn thể thao này sau khi gặp phải sự cố chấn thương ở đầu gối ở năm đầu tiên tại trường trung học sau khi gặp phải sự cố chấn thương ở đầu gối. Sau đó Song Jong-ki đã diễn một vai vận động viên trượt băng tốc độ Quốc gia trong phim truyền hình TV Triple.
Song Joong-ki sau đó hoàn toàn tập trung vào việc học, gác lại giấc mơ vận động viên. Điểm số của anh được cải thiện đáng kể, thậm chí đạt được điểm cao nhất cho tất cả các môn học của mình. Đạt 380 trên tổng số 400 điểm trong kì thi đại học, anh bước vào học tại trường Đại học Sungkyunkwan danh tiếng và tốt nghiệp với tấm bằng quản trị kinh doanh năm 2012.
Các chặng đường sự nghiệp của Song Joong Ki
Từ năm 2008 đến 2011 – Bước đầu sự nghiệp
Song Joong-ki khởi nghiệp diễn xuất vào năm 2008 trong phim điện ảnh “Sương Hoa điếm”. Một năm sau đó, anh tham gia diễn xuất cho Five Senses of Eros, bộ phim bao gồm nhiều phân khúc và câu chuyện rời rạc, anh xuất hiện ở phân khúc trao đổi người yêu “Believe in the Moment” và tiếp tục đảm nhận những vai diễn nhỏ nhưng đáng chú ý trong Triple và Giáng sinh tuyết có rơi?.
Từ năm 2009 đến 2010, Song Joong-ki đóng vai trò là người dẫn chương trình của chương trình âm nhạc Music Bank được trực tiếp vào mỗi thứ Sáu hằng tuần trên đài KBS. Anh cũng là thành viên chính thức của chương trình truyền hình thực tế Running Man được phát sóng trên SBS từ năm 2010, tháng 4 năm 2011 anh rời Running Man để tập trung vào diễn xuất. Cũng vào năm 2010 Song Joong-ki xuất hiện trong một bộ phim về y tế mang tên “Bác sĩ phụ sản” và bộ phim về động vật phần tiếp theo “Hearty Paws 2”.
Sau cùng, việc hóa thân vào vai một chàng playboy có cuộc sống bí ẩn với tính cách kì lạ và vô cùng giàu có ở thế kỷ 18 (thời đại Joseon) trong bộ phim truyền hình Sungkyunkwan Scandal (2010) là một phát súng trúng đích, biến Song Joong-ki trở thành ngôi sao sáng đầy triển vọng, trong số những ngôi sao trẻ mà tài năng còn lại lúc bấy giờ. Song Joong-ki từng phát hành cuốn sách mang tên Beautiful Skin Project, bí quyết giữ gìn làn da khỏe đẹp dành cho nam giới (được xuất bản vào năm 2013 tại Nhật Bản) và là cuốn sách best-seller chỉ sau 1 tháng bán ra.Vào cuối năm 2010, anh đã có chuyến đạp xe vòng quanh thành phố Sydney, chương trình được phát sóng 2 tập trên ELLE TV, một nhánh của tạp chí thời trang cùng tên. Cũng trong năm này, Song Joong-ki tham gia ghi hình cho một chương trình truyền hình đặc biệt về chuyến đi đến Nhật Bản của các diễn viên có tên I’m Real: Song Joong-ki được phát sóng 2 phần vào đầu năm 2011. Anh cũng từng làm MC cho chương trình thử giọng Made in U của kênh JTBC, và mặc dù chương trình có chỉ số người xem khá thấp nhưng Song Joong-ki lại một lần nữa được khen gợi bởi kỹ năng dẫn dắt chương trình nhuần nhuyễn và điêu luyện trong vai trò MC của mình.
Năm 2011, Song Joong-ki vào vai một kẻ quỵt nợ, sống lông bông và thất nghiệp trong phim điện ảnh hài lãng mạn Many a little romance. Dựa trên mô tả của phim, Song Joong-ki biến chuyển một cách nhẹ nhàng từ một kẻ hài hước gây cười cho đến một người đàn ông “đầy cuốn hút”, “một chàng trai vai chính đáng để chết ngất với sự hiện hữu đầy tin cậy của anh ấy”.
Bất chấp những lời khuyên trái chiều, Song Joong-ki nhận vai diễn Sejong – một nhà vua trẻ trong bộ phim Deep Rooted Tree mặc dù thời gian anh xuất hiện trên phim chỉ là 4 tập. Anh đọc rất nhiều tài liệu lịch sử và là người đặt nền móng cho nhân vật nhà vua của nam diễn viên chính Han Suk-kyu sau này. Anh nói rằng mình cảm thấy “một vai diễn đầy thách thức luôn đáng giá hơn một vai chính trong một bộ phim truyền hình ngắn”. Các nhà phê bình khen ngợi khả năng làm việc xuất sắc của anh, họ gọi đó là vai diễn của một thiên tài, người mà đã “sớm nhận ra sự vô ích của quyền lực trong cuộc sống khi còn rất trẻ”, người che đậy những quyển sách của mình nhầm đối phó với việc lớn lên dưới sự cai trị của người cha độc đoán của ông, vua Taejong. Anh đã nhận Giải thưởng PD vào năm 2011 của lễ trao giải SBS Drama Awards cho vai diễn này.
Trong một chương trình của đài MBC mang tên Tears of the Earth – chương trình tập trung để nói về những vấn đề cấp bách của mội trường trên hành tinh, Song Joong-ki đã thực hiện thuyết minh cho bộ phim tài liệu bao gồm 6 phần có tên Tears of the Antarctic – một phần của serie phim Tears of the Earth. Và toàn bộ số tiền cát-xê mà Song Joong-ki nhận được khi làm bộ phim này đã được anh dành cho từ thiện.Anh đồng thời thành công vang dội với vai trò là người thuyết minh cho Pengi and Sommi khi bộ phim được biên tập lại và phát hành tại nhiều rạp. Sau đó, Song Joong-ki cũng có chuyến đi gặp gỡ người hâm mộ qua 6 nước mang tên Song Joong-ki Asia Fan Meeting Tour – THRILL & LOVE, tổ chức họp fan tại Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Seoul, Hàn Quốc.
Từ năm 2012 2015 – Đảm nhận vai chính và nhập ngũ
Song Joong-ki đã mô tả năm 2012 là một “năm hiện tượng” đối với sự nghiệp diễn xuất của mình, khi anh vào vai một anh chàng người sói trong bộ phim điện ảnh giả tưởng lãng mạn Cậu bé người sói, phim được trình chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào năm 2012.Để chuẩn bị cho vai diễn của mình, anh đã phải xem những bộ phim tài liệu về thiên nhiên và quan sát những chú chó đi lạc trên đường để học cách diễn và bắt chước chuyển động cơ thể của loài động vật. Anh cũng nhiều lần xem đi xem lại tác phẩm điện ảnh giả tưởng lãng mạn từng được phát hành vào năm 1990 – Edward Scissorhands của đạo diễn Tim Burton, bộ phim về ma cà rồng Let Me In (2010) của Matt Reeves, và nhân vật Gollum trong The Lord of the Rings. Anh nói “đó là một dự án mà khiến tôi phải suy nghĩ rằng tôi phải nói lời tạm biệt với tuổi trẻ của mình, tôi không còn trẻ nữa và đã đến lúc để tôi trở thành một người đàn ông”.Cậu bé người sói đã trở thành bộ phim điện ảnh tình cảm Hàn Quốc thành công nhất mọi thời đại, với hơn 7 triệu vé bán ra.
Chàng trai tốt bụng là dấu mốc lần đầu tiên Song Joong-ki đóng vai chính trong một phim truyền hình. Diễn xuất đầy nội tâm và sắc thái của anh về một nhân vật không phải anh hùng cũng không phải là kẻ phản diện đã nhận được vô số lời khen ngợi.Chàng trai tốt bụng thu hút nhiều mức tỷ suất người xem cao và nhận về vô số lời tán thưởng. Cùng với ấn tượng mà anh đã đạt được tại phòng vé ở tác phẩm điện ảnh Cậu bé người sói, Song Joong-ki lại càng củng cố được hình ảnh của mình trên báo chí như một “vị cứu tinh” của thể loại phim tình cảm cả trên màn ảnh lớn lẫn màn ảnh nhỏ. Nhưng Song Joong-ki cũng khẳng định rằng anh ấy thà làm một diễn viên tốt hơn là một diễn viên nổi tiếng, và có kế hoạch sẽ luôn giữa bình tĩnh, tiếp tục tích lũy thêm kinh nghiệm như anh đã làm trước đó. Vào tháng 2 năm 2013, sau khi kết thúc hợp đồng của anh với công ty giải trí Sidus HQ, Song Joong-ki thông báo rằng anh sẽ gia nhập công ty giải trí Blossom Entertainment. Trước khi lên đường đi nhập ngũ để thực hiện nghĩa vụ quân sự, Song Joong-ki đã tổ chức một buổi họp mặt fan vào ngày 17 tháng 08 năm 2013. Anh nhập ngũ ngay sau đó vào ngày 27 tại khu vực binh đoàn số 102, ở Chuncheon.Anh đã xuất ngũ vào ngày 26 tháng 5 năm 2015.
Từ năm 2016 đến nay – Diễn viên hạng A hàng đầu Hàn Quốc
Song Joong-ki đã trở lại màn ảnh nhỏ với bộ phim truyền hình “Hậu duệ mặt trời” cùng với nữ diễn viên Song Hye-kyo, anh vào vai một quân nhân chỉ huy của một đơn vị gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Bộ phim nổi tiếng một cách đáng ngạc nhiên với rating tập cuối đạt 38,8% toàn quốc và 41,6% ở thủ đô Seoul.Với sự thành công của Hậu duệ, đặc biệt là ở Trung Quốc, đã đưa anh trở thành Đại sứ Danh Dự Du lịch Hàn Quốc của Tổ chức Du lịch Hàn Quốc để tích cực thúc đẩy du lịch Hàn Quốc trên toàn thế giới. Anh cũng được xếp vị trí thứ 34 trong Top 100 Future Generation of Leaders (Top 100 Người dẫn đầu của thời đại mới). Anh trở thành gương mặt đại diện riêng của hơn 30 thương hiệu năm 2016 và cũng là một trong những người nhận giả Thương hiệu Hàn Quốc của năm Sau đó, anh bắt tay vào tổ chức tour diễn châu Á kéo dài 10 thành phố khác nhau đã được bán cháy vé, ở đó anh đã gặp hơn 60.000 người hâm mộ. Song Joong-Ki sẽ xuất hiện trở lại năm 2017 trong bộ phim điện ảnh Đảo Battleship cùng bạn diễn So Ji-sub và Hwang Jung-min. Anh sẽ vào vai một thành viên của nhóm Korean Independence, một người đã lẻn vào đảo Battleship để giải cứu một thành viên trong nhóm.
Các bộ phim đã đóng của Song Joong Ki
Phim điện ảnh
Năm | Tên Phim | Tên tiếng Hàn | Vai |
---|---|---|---|
2008 | Sương Hoa điếm | 쌍화점 | No-tak |
2009 | Five Senses of Eros | 오감도 | Yoo Jae-hyuk |
Vụ án mạng ở Itaewon | 이태원 살인사건 | Jo Jong-pil | |
2010 | Hearty Paws 2 | 마음이2 | Dong-wook |
2011 | Many a little romance | 티끌모아 로맨스 | Chun Ji-woong |
Rio | Blu (lồng tiếng) | ||
2012 | Pengi and Sommi | 황제펭귄 펭이와 솜이 | Thuyết minh |
The Grand Heist | 바람과 함께 사라지다 | Jung-goon lúc lớn (khách mời) | |
Cậu bé người sói | 늑대소년 | Chul-soo | |
2017 | The Battleship Island | 군함도 | Park Moo Young |
Phim truyền hình
Năm | Tên chương trình | Tên tiếng Hàn | Kênh | Chi tiết |
---|---|---|---|---|
2008 | Pretty Boys: A Wrong Situation | 꽃미남 아롱사태 | Mnet | |
2009 | Let’s Go Dream Team! Season 2 | 출발 드림팀2 | KBS2 | Khách mời (tập 1, 10-13) |
Star Golden Bell | 스타골든벨 | Khách mời (tập 285) | ||
2009-10 | Music Bank | 뮤직뱅크 | Chương trình âm nhạc, vai trò MC | |
2010 | Oh! My School | 오 마이 스쿨 | Khách mời (tập 1) | |
Strong Heart | 강심장 | SBS | Khách mời (tập 23) | |
Happy Together | 해피투게더 | KBS2 | Khách mời (tập 155) | |
2010-16 | Running Man | 런닝맨 | SBS | Thành viên chính thức (tập 1-41) Khách mời (tập 66) Xuất hiện ngắn (tập 71, 97, 251, 283) |
2011 | I’m Real: Song Joong-ki | I’m Real 송중기 | QTV | |
Everyone Dramatic | 에브리원 드라마틱 | MBC | ||
Made in U | 메이드 인 유 | jTBC | Chương trình thử giọng, vai trò MC | |
2011-12 | Tears of the Antarctic | 남극의 눈물 | MBC | Phim tài liệu, vai trò người thuyết minh |
2012 | Infinite Challenge | 무한도전 | Mùa 4 tập 305, khách mời | |
Trunq Daegu | Tokyo MX | với Fujii Mina |
Chương trình truyền hình
Năm | Tên chương trình | Tên tiếng Hàn | Kênh | Chi tiết |
---|---|---|---|---|
2008 | Pretty Boys: A Wrong Situation | 꽃미남 아롱사태 | Mnet | |
2009 | Let’s Go Dream Team! Season 2 | 출발 드림팀2 | KBS2 | Khách mời (tập 1, 10-13) |
Star Golden Bell | 스타골든벨 | Khách mời (tập 285) | ||
2009-10 | Music Bank | 뮤직뱅크 | Chương trình âm nhạc, vai trò MC | |
2010 | Oh! My School | 오 마이 스쿨 | Khách mời (tập 1) | |
Strong Heart | 강심장 | SBS | Khách mời (tập 23) | |
Happy Together | 해피투게더 | KBS2 | Khách mời (tập 155) | |
2010-16 | Running Man | 런닝맨 | SBS | Thành viên chính thức (tập 1-41) Khách mời (tập 66) Xuất hiện ngắn (tập 71, 97, 251, 283) |
2011 | I’m Real: Song Joong-ki | I’m Real 송중기 | QTV | |
Everyone Dramatic | 에브리원 드라마틱 | MBC | ||
Made in U | 메이드 인 유 | jTBC | Chương trình thử giọng, vai trò MC | |
2011-12 | Tears of the Antarctic | 남극의 눈물 | MBC | Phim tài liệu, vai trò người thuyết minh |
2012 | Infinite Challenge | 무한도전 | Mùa 4 tập 305, khách mời | |
Trunq Daegu | Tokyo MX | với Fujii Mina |
Video âm nhạc
Năm | Tên bài hát | Tên tiếng Hàn | Nghệ sĩ |
2009 | “Poisonous Tongue” | 독설 | Tei |
2012 | “Men Are All Like That” | 남자가 다 그렇지 뭐 | Kim Jong-kook |
Danh sách đĩa nhạc
Năm | Tên bài hát | Tên tiếng Hàn | Ghi chú |
---|---|---|---|
2012 | “Really” | 정말 | Nhạc phim Chàng trai tốt bụng |
Giải thưởng và đề cử cho Song Joong Ki
Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|---|
2010 | Style Icon Awards lần thứ 3 | Style Icon mới (Nam diễn viên truyền hình) | Không có | Đoạt giải |
Blue Dragon Film Awards lần thứ 31 | Nam diễn viên mới xuất sắc nhất | Hearty Paws 2 | Đề cử | |
SBS Entertainment Awards | Gương mặt mới xuất sắc nhất trong chương trình giải trí | Running Man | Đoạt giải | |
KBS Drama Awards | Giải thưởng xuất sắc, Nam diễn viên phim truyền hình | Sungkyunkwan Scandal | Đề cử | |
Giải thưởng của Cư dân mạng | Đề cử | |||
Giải thưởng dành cho người nổi tiếng | Đoạt giải | |||
Giải thưởng Cặp đôi xuất sắc nhât cùng với Yoo Ah-in | Đoạt giải | |||
2011 | Asia Model Festival Awards lần thứ 6 | Giải thưởng BBF Fashionista | Không có | Đoạt giải |
7th Korea Drama Awards | Nam diễn viên mới xuất sắc nhất | Sungkyunkwan Scandal | Đề cử | |
SBS Drama Awards | Giải thưởng của Nhà sản xuất | Deep Rooted Tree | Đoạt giải | |
2012 | 6th Mnet 20’s Choice Awards | 20’s Ngôi sao nam phim truyền hình | Đề cử | |
Style Icon Awards lần thứ 5 | Style Icon | |||
Korean Culture and Entertainment Awards lần thứ 19 | Top giải thưởng xuất sắc, nam diễn viên | Chàng trai tốt bụng | Đoạt giải | |
K-Drama Star Awards lần thứ nhất | Top giải thưởng xuất sắc, nam diễn viên | Đoạt giải | ||
KBS Drama Awards | Top giải thưởng xuất sắc, nam diễn viên | Đoạt giải | ||
Giải thưởng xuất sắc, Nam diễn viên phim truyền hình | Đề cử | |||
Giải thưởng của Cư dân mạng | Đoạt giải | |||
Cặp đôi xuất sắc nhất với Moon Chae-won | Đoạt giải | |||
2013 | Baeksang Arts Awards lần thứ 49 | Nam diễn viên xuất sắc nhất (phim điện ảnh) | Cậu bé người sói | Đề cử |
6th Nickelodeon Korea Kids’ Choice Awards | Nam diễn viên được yêu thích | Đoạt giải | ||
7th Mnet 20’s Choice Awards | 20’s Ngôi sao nam phim điện ảnh | Đề cử | ||
50th Grand Bell Awards | Giải thưởng dành cho người nổi tiếng | Đề cử | ||
8th Seoul International Drama Awards | Nam diễn viên Hàn Quốc xuất sắc | Chàng trai tốt bụng | Đề cử | |
Nhạc phim truyền hình Hàn Quốc xuất sắc | “Really” (nhạc phim Chàng trai tốt bụng) |
Đề cử | ||
2016 | Style Icon | Không có | Đoạt giải | |
Baeksang Arts Awards lần thứ 52 | Nam diễn viên xuất sắc nhất (phim truyền hình) | Hậu duệ mặt trời | Đề cử | |
Nam diễn viên nổi tiếng nhất (phim truyền hình) | Đoạt giải | |||
Giải Ngôi sao toàn cầu iQiyi | Không có | Đoạt giải | ||
11th Seoul International Drama Awards | Nam diễn viên Hàn Quốc xuất sắc | Hậu duệ mặt trời | Đoạt giải | |
5th APAN Star Awards | Cặp đôi xuất sắc nhất với Song Hye-kyo | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên xuất sắc nhất trong phim ngắn tập | Đề cử | |||
Giải thưởng danh giá (Daesang) | Đoạt giải | |||
Giải thưởng ngôi sao APAN xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
9th Korea Drama Awards | Giải thưởng danh giá (Daesang) | Đề cử | ||
Cặp đôi xuất sắc nhất với Song Hye-kyo | Đoạt giải | |||
Korean Popular Culture and Arts Awards lần thứ 7 | Giải thưởng của Tổng thống (với 6 người khác) | Đoạt giải | ||
KBS Drama Awards | Cặp đôi châu Á với Song Hye-kyo | Đoạt giải | ||
Cặp đôi đẹp nhất với Song Hye-kyo | Đoạt giải | |||
Nam diễn viên chính xuất sắc (phim truyền hình) | Đề cử | |||
Giải thưởng danh giá (Daesang) | Đoạt giải | |||
5th DramaFever Awards | Nam diễn viên xuất sắc | Đề cử | ||
2017 | 29th Korean PD Awards | Diễn viên xuất sắc nhất | Hậu duệ mặt trời | Đoạt giải |